Hình ảnh siêu âm của động vật nhỏ

Nguyên lý chụp ảnh siêu âm động vật nhỏ

Bé nhỏsiêu âm động vậtĐầu dò sẽ được siêu âm thông qua tác nhân ghép phủ bề mặt da động vật nhỏ, siêu âm sẽ được truyền đến cơ thể động vật nhỏ.Sóng siêu âm trải qua phản xạ bề mặt khi gặp mặt tiếp xúc của hai môi trường có mật độ khác nhau và sóng siêu âm phản xạ ngược là tiếng vang, được đầu dò siêu âm tiếp nhận và tạo thành hình ảnh siêu âm sau khi chuyển đổi chế độ kỹ thuật số (Hình 1).

Siêu âm động vật nhỏ

Hình 1

Chế độ hình ảnh cơ bản của hình ảnh siêu âm là chế độ B, chế độ này chụp ảnh cấu trúc giải phẫu của động vật nhỏ, được hiển thị theo thang màu đen-trắng-xám, trong đó:

Màu trắng: thể hiện tiếng vang mạnh, thường có cấu trúc mô dày đặc như đá và bọt khí.

Màu xám: đại diện cho tiếng vang thấp, thường là các cấu trúc mô có mật độ trung bình, chẳng hạn như gan, túi mật, tuyến tụy, lá lách và các cơ quan khác.

Màu đen: không có tiếng vang, thường là các cấu trúc mô có mật độ thấp, chẳng hạn như chất lỏng, mạch máu, mô hoại tử.

Một chế độ chụp ảnh siêu âm thường được sử dụng khác là chế độ Doppler màu, thường được gọi là siêu âm màu, dựa trên hình ảnh cấu trúc B-mode, các tín hiệu lưu lượng máu được đánh dấu bằng các màu khác nhau, thuận tiện cho việc quan sát sự phân bố lưu lượng máu. trong các mô và cơ quan, trong đó:

Màu đỏ: biểu thị lưu lượng máu hướng tới đầu dò (Hình 2, bên trái).

Màu xanh lam: thể hiện dòng máu chảy ngược ra khỏi đầu dò (Hình 2 bên phải).

siêu âm động vật

Hình 2

Tính năng của hệ thống chụp ảnh siêu âm động vật nhỏ

1. Không bức xạ, dễ vận hành, hình ảnh trực quan, có khả năng quan sát thời gian thực và thời gian dài (Hình 3).

 siêu âm động vật

Hình 3 Nghiên cứu an toàn, không xâm lấn, thời gian dài

2. Tốt nhất về hình ảnh mô mềm.

3. Phạm vi ứng dụng rộng rãi: ngoài việc chụp ảnh phổi gặp khó khăn tạm thời (phổi chứa đầy khí, trên màn hình siêu âm là vùng dội âm mạnh, không thể nhìn thấy cấu trúc bên trong), các mô và cơ quan khác có thể có hình ảnh siêu âm.

Sự khác biệt giữa siêu âm lâm sàng và siêu âm động vật nhỏ

Sự khác biệt lớn nhất giữa hai loại này là tần số đầu dò siêu âm: tần số đầu dò siêu âm lâm sàng khoảng 3-15 MHz;Tần số đầu dò siêu âm động vật nhỏ thường có thể đạt tới 20-50 MHz, đầu dò siêu âm chuột có thể đạt tới 80 MHz.

Theo tính chất vật lý của siêu âm, tần số siêu âm càng thấp thì độ sâu thâm nhập càng tốt nhưng độ phân giải trở nên kém hơn.Ngược lại, tần số siêu âm càng cao thì độ sâu hình ảnh càng nông nhưng độ phân giải càng tăng.Vì vậy, hầu hết siêu âm lâm sàng được sử dụng là siêu âm tần số thấp, phù hợp với cơ thể con người và độ phân giải hình ảnh thu được đủ để quan sát các cấu trúc.

Tuy nhiên, điều này không xảy ra với động vật nhỏ.Ví dụ, độ dày của chuột chỉ khoảng 3 cm, thể tích các cơ quan nội tạng nhỏ hơn nhiều so với con người nên việc sử dụng đầu dò siêu cao tần để thu được hình ảnh có độ phân giải cao nhằm quan sát rõ ràng (Hình 4) .

siêu âm động vật

Hình 4 Sự khác biệt giữa siêu âm lâm sàng và siêu âm động vật nhỏ

Lấy hình ảnh siêu âm tâm thất trái chuột làm ví dụ

Đầu dò siêu âm lâm sàng trong Hình 5 có tần số thấp và độ sâu hình ảnh sâu (khoảng 3 cm) nên tâm thất trái của chuột (sâu dưới 1 cm) không thể đặt được ở trung tâm trường nhìn, và độ phân giải hình ảnh là không đủ để

tâm thất trái tỉ mỉ và phân tích nó một cách chính xác.Đầu dò siêu âm động vật nhỏ trong Hình 6 có tần số cao, tâm thất trái nằm ở trung tâm tầm nhìn, có thể tập trung ở độ sâu 7mm, độ phân giải hình ảnh tốt, có thể quan sát rõ ràng mọi cấu trúc quan trọng của cơ thể. tâm thất trái và có lợi cho việc định lượng chính xác ở giai đoạn sau.

 siêu âm động vật

Hình 5 Hình ảnh siêu âm lâm sàng tâm thất trái ở chuột

 siêu âm động vật

Hình 6 Tâm thất trái của chuột được chụp bằng siêu âm động vật nhỏ

 


Thời gian đăng: Mar-13-2024